2024 Tác giả: Howard Calhoun | [email protected]. Sửa đổi lần cuối: 2023-12-17 10:44
Đồng krone Đan Mạch được phân phối ở Đan Mạch, Quần đảo Faroe và Greenland. Mã tiền tệ là DKK, được ký hiệu là kr. Chính cái tên "Crown" được dịch là "vương miện". Một vương miện bao gồm 100 øre. Đồng krone hiện đang được cố định với đồng euro. Ngày nay, tiền giấy mệnh giá 50, 100, 200, 500 và 1000 kroner Đan Mạch đang được lưu hành. Đối với tiền xu, có 50 öre và 1, 2, 5, 10 và 20 vương miện đang được lưu hành.
Nguồn gốc và lịch sử
Các sự kiện khác nhau trong lịch sử của đất nước đã ảnh hưởng đến loại tiền tệ được lưu hành ở Đan Mạch. Những đồng tiền cổ nhất của Đan Mạch là những đồng tiền được gọi là corsmenter hay "đồng tiền chữ thập" được đúc bởi Harold Sinezuby vào cuối thế kỷ 10. Lund là địa điểm đúc tiền chính và là một trong những thành phố quan trọng nhất ở Đan Mạch trong thời Trung cổ, nhưng trong thời đại này, tiền xu cũng được đúc ở những nơi như Roskilde, Odense hoặc Viborg.
Đồng krone Đan Mạch thường dựa trên tiêu chuẩn bạc. Theo định kỳ, lượng kim loại trong tiền xu giảm xuống, do đóhọ đã không sống đúng với mệnh giá của họ. Điều này được thực hiện chủ yếu để tạo thêm thu nhập cho quốc vương hoặc nhà nước. Kết quả là, công chúng bắt đầu mất niềm tin vào các đồng tiền tương ứng và đồng tiền Đan Mạch đã được đúc lại nhiều lần trong nỗ lực khôi phục lòng tin của công chúng đối với đồng tiền này. Cuối cùng tiền giấy đã được phát hành.
Vào cuối thế kỷ 18 và 19. tăng hoạt động kinh tế trong nước và kéo theo đó là nhu cầu về các phương tiện thanh toán dễ phát hành hơn tiền xu. Do đó, tiền giấy ngày càng trở nên phổ biến hơn.
Loại tiền tệ nào ở Đan Mạch sẽ tiếp tục tồn tại đã bị ảnh hưởng bởi sự hình thành của Liên minh tiền tệ Scandinavia, có hiệu lực vào năm 1873 (và cùng với nó là đơn vị tiền tệ mới, được thông qua hai năm sau đó) và tồn tại cho đến khi chiến tranh thế giới thứ nhất. Sau đó, một vương miện mới đã được giới thiệu. Ba quốc gia Scandinavia là thành viên của liên minh và đơn vị tiền tệ mới được gọi là krone ở Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển. Từ này có nghĩa đen là "vương miện" trong cả ba ngôn ngữ.
Liên minh tiền tệ Scandinavia kết thúc vào năm 1914 khi bản vị vàng bị bãi bỏ. Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy vẫn quyết định giữ tên của các loại tiền tệ quốc gia của họ, hiện đã được tách ra.
Đan Mạch sau đó đã quay trở lại chế độ bản vị vàng vào năm 1924, nhưng cuối cùng đã ngừng theo đuổi nó vào năm 1931. Từ năm 1940 đến năm 1945, đồng krone Đan Mạch được gắn vào Đế quốc Đức cho đến khi Đức kết thúcnghề nghiệp.
Kinh tế
Quốc gia ủng hộ chính sách thương mại tự do.
Các ngành công nghiệp chính là dệt may, quần áo, cối xay gió, chế biến thực phẩm, hóa chất, luyện kim (thép, sắt, kim loại màu), khí đốt, chế biến gỗ, sản xuất đồ nội thất và đóng tàu.
Các sản phẩm xuất khẩu là thịt, vân sam, gỗ, cá, các sản phẩm từ sữa, cây trồng trong chậu, đồ nội thất, dược phẩm, công cụ và máy móc. Các sản phẩm nhập khẩu là hóa chất, ngũ cốc, thực phẩm, nguyên liệu, thiết bị và máy móc.
Tỷ lệ thất nghiệp là 4,1%. Nghèo đói được coi là không thể chấp nhận được vì Đan Mạch có một hệ thống phúc lợi rộng khắp. Lạm phát trong nước là 1,3%.
Đơn vị tiền tệ ở Đan Mạch hiện nay là gì
Sau năm 1945, 24 vương miện tương đương với 1 bảng Anh. Năm 1949, đồng krone trở thành một phần của hệ thống tiền tệ Bretton Woods và giảm giá còn 6,91 kroner=1 đô la Mỹ. Năm 1997, một loạt tiền giấy mới đã được phát hành.
Vào năm 200, một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức trong nước và đồng nội tệ được gắn với đồng euro. Tiền xu theo chủ đề xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2001.
Nhiều khách du lịch sẽ tự hỏi tỷ giá hối đoái ở Đan Mạch so với đồng rúp là bao nhiêu: 10 DKK=100, 49 RUB.
Xu
Các loạt màu khác nhau được thiết kế để phân biệt chúng và xác định loại tiền nào đang được lưu hành ở Đan Mạch. Để sản xuất quặng 50, đồng và đồng được sử dụng. Đồng tiền 1 và 5 kroon có màu bạc và bao gồmtừ hợp kim đồng-niken, vương miện 10 và 20 được làm bằng đồng nhôm, 50 vương miện bằng vàng. Tiền xu mệnh giá 1 và 5 vương miện có khía. Đồng xu 1 vương miện cũng có một lỗ ở trung tâm. Các thuộc tính này cho phép chúng được phân biệt.
Tiền giấy
Có số lượng tiền giấy được lưu hành từ 5 đến 1000 mão. Điểm chung là một loạt phim được sản xuất từ năm 1952 đến năm 1964. Chuỗi này có các giá trị 5, 10, 50, 100 và 500 vương miện. Một loạt khác được giới thiệu vào năm 1992 với các giá trị 50, 100, 200, 500 và 1000 vương miện. Đó là một sê-ri có các cây cầu 50, 100, 200, 500 và 1000. Các mẫu thiết kế tiền giấy mới đã được lưu hành trong năm 2009 và 2011.
Greenland và Quần đảo Faroe
Tiền Đan Mạch lưu hành ở Greenland giống như đồng krone Greenlandic. Cũng nên đề cập đến loại tiền nào ở Đan Mạch cũng được phân phối ở Quần đảo Faroe: cái gọi là đồng krone Faroe đang được lưu hành ở đó, cũng như loạt tiền xu của Đan Mạch.
Đề xuất:
Đơn vị tiền tệ - nó là gì? Định nghĩa đơn vị tiền tệ và các loại đơn vị tiền tệ
Đơn vị tiền tệ là thước đo để biểu hiện giá trị của hàng hoá, dịch vụ, sức lao động. Mặt khác, mỗi đơn vị tiền tệ ở các quốc gia khác nhau đều có một phương thức đo lường riêng. Trong lịch sử, mỗi bang đặt ra đơn vị tiền của riêng mình
Đạn nổ cao. Đạn phân mảnh có độ nổ cao. đạn pháo
Khi trở lại năm 1330, Berthold Schwarz, một tu sĩ người Đức, phát hiện ra đặc tính ném thuốc súng, ông không tưởng tượng rằng mình sẽ trở thành tổ tiên của một vị thần mới - thần chiến tranh
Dinar Tunisia. Đơn vị tiền tệ của Tunisia là TND. Lịch sử hình thành đơn vị tiền tệ. Thiết kế tiền xu và tiền giấy
Trong bài viết này, độc giả sẽ được làm quen với đồng dinar của Tunisia, lịch sử của đồng tiền này. Ngoài ra, trong tài liệu này, bạn có thể xem thiết kế của một số loại tiền giấy và tìm hiểu tỷ giá hối đoái hiện tại
Krone Đan Mạch. Lịch sử xuất hiện
Sự xuất hiện của tiền tệ của bất kỳ quốc gia nào đều có trước một loạt các sự kiện lịch sử. Đồng krone Đan Mạch cũng là bằng chứng về những hiện tượng quan trọng trong đời sống của chế độ quân chủ
Đơn vị tiền tệ Tugrik - đơn vị tiền tệ của nó
Để chỉ một loại ngoại tệ không được tự do chuyển đổi, từ "tugrik" được sử dụng. Đồng tiền gọi là Tugrik của ai thì không phải ai cũng biết. Trong hầu hết các trường hợp, từ này được kết hợp với khái niệm rộng rãi về "tiền" và được sử dụng theo phong cách thông tục