Ngành công nghiệp ô tô Mỹ: lịch sử, phát triển, hiện trạng. Ngành công nghiệp ô tô của Hoa Kỳ
Ngành công nghiệp ô tô Mỹ: lịch sử, phát triển, hiện trạng. Ngành công nghiệp ô tô của Hoa Kỳ

Video: Ngành công nghiệp ô tô Mỹ: lịch sử, phát triển, hiện trạng. Ngành công nghiệp ô tô của Hoa Kỳ

Video: Ngành công nghiệp ô tô Mỹ: lịch sử, phát triển, hiện trạng. Ngành công nghiệp ô tô của Hoa Kỳ
Video: Hướng Dẫn Đầu Tư Chứng Khoán Cơ Bản Từ A-Z (F0 phải biết) | Cú Thông Thái 2024, Tháng mười một
Anonim

Henry Ford đã giới thiệu các phương pháp sản xuất hàng loạt sáng tạo đã trở thành tiêu chuẩn và đến năm 1920 Ford, General Motors và Chrysler đã trở thành Ba công ty ô tô lớn.

Các nhà sản xuất đã đổ nguồn lực của họ cho quân đội trong Thế chiến thứ hai, và sau đó sản lượng xe ở Châu Âu và Nhật Bản đã tăng vọt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng. Từng là yếu tố quan trọng đối với việc mở rộng các trung tâm đô thị của Mỹ, ngành công nghiệp ô tô bắt đầu phát triển. Ngành công nghiệp ô tô của Mỹ đã đưa ra cho thế giới nhiều giải pháp kỹ thuật. Ngày nay, các tập đoàn lớn tiếp tục giới thiệu các công nghệ để cải thiện mô hình của họ.

Mặc dù ô tô có tác động kinh tế và xã hội lớn nhất ở Hoa Kỳ, nhưng ban đầu nó đã được hoàn thiện ở Đức và Pháp vào cuối thế kỷ 19 bởi những người đàn ông như Gottlieb Daimler, Karl Benz, Nikolaus Otto và Emile Levassor.

Sự xuất hiện của những mẫu sản xuất đầu tiên

1901 Mercedes do Wilhelm Maybach thiết kế cho Daimler MotorenGesellschaft xứng đáng được công nhận là chiếc xe hiện đại đầu tiên.

Động cơ 35 mã lực của nó chỉ nặng 6,4kg mỗi mã lực và đạt tốc độ tối đa 85km / h. Năm 1909, khi thành lập nhà máy sản xuất ô tô tích hợp nhất ở châu Âu, Daimler đã sử dụng khoảng 1.700 công nhân để sản xuất dưới một nghìn chiếc ô tô mỗi năm. Chính sự đột phá ở châu Âu đã mở rộng phạm vi của các công nghệ mới. Sau đó, ngành công nghiệp ô tô Mỹ sẽ vay mượn và chắt lọc những ý tưởng này. Trong 30 năm nữa, các công ty phương Tây sẽ trở thành người dẫn đầu.

băng tải lắp ráp
băng tải lắp ráp

Không có gì minh họa rõ nét tính ưu việt của thiết kế Châu Âu hơn sự tương phản hoàn toàn giữa mẫu xe Mercedes đầu tiên này và chiếc Oldsmobile Ransom E. Oldsmobile Ransom E. Cũ 1901-1906, xi-lanh đơn, có tay lái, chỉ là một toa xe có động cơ. Xe cũ được bán với giá chỉ 650 đô la, cho phép tầng lớp trung lưu ở Mỹ mua chúng và sản lượng 5.508 chiếc Olds năm 1904 bán chạy hơn bất kỳ chiếc xe nào từng được sản xuất.

Vấn đề trọng tâm của ngành kỹ thuật ô tô trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20 là dung hòa thiết kế tinh tế của chiếc Mercedes 1901 với những chiếc Xe cũ có giá vừa phải và bảo dưỡng thấp.

Henry Ford và William Durant

Người đi xe đạp J. Frank và Charles Durya ở Springfield, Massachusetts đã phát triển thành công chiếc ô tô chạy xăng đầu tiên của Mỹ vào năm 1893, sau đó giành chiến thắng trong cuộc đua ô tô đầu tiên của Mỹ vào năm 1895 vàtung ra đợt bán xe đầu tiên chạy xăng do Mỹ sản xuất vào năm sau.

Ba mươi nhà sản xuất Mỹ đã sản xuất 2.500 xe hơi vào năm 1899, và khoảng 485 công ty đã đi vào hoạt động kinh doanh trong thập kỷ tiếp theo. Năm 1908, Henry Ford giới thiệu Model T và William Durant thành lập General Motors.

Ngành công nghiệp ô tô Mỹ hoạt động trên thị trường hàng tiêu dùng đắt tiền. Với vùng đất rộng lớn và vùng nội địa của các khu định cư rải rác và biệt lập, Hoa Kỳ có nhu cầu về công nghệ lớn hơn nhiều so với các quốc gia ở Châu Âu. Nhu cầu cao cũng được hỗ trợ bởi thu nhập bình quân đầu người cao hơn đáng kể và phân phối thu nhập công bằng hơn so với các nước Châu Âu.

Mẫu T

Với truyền thống của ngành công nghiệp ô tô Mỹ, chắc chắn rằng các loại xe sẽ được sản xuất với số lượng lớn hơn với giá thấp hơn ở châu Âu. Việc không có hàng rào thuế quan giữa các tiểu bang đã kích thích hoạt động bán hàng trên một khu vực địa lý rộng lớn. Nguyên liệu thô rẻ và tình trạng thiếu lao động có tay nghề cao đã góp phần sớm vào quá trình cơ giới hóa các quy trình sản xuất ở Hoa Kỳ.

Điều này lại đòi hỏi tiêu chuẩn hóa các sản phẩm và dẫn đến việc sản xuất hàng loạt các mặt hàng như súng cầm tay, máy khâu, xe đạp và nhiều mặt hàng khác. Năm 1913, Hoa Kỳ sản xuất khoảng 485 trong tổng số 606.000 ô tô trên thế giới.

Ford Motor Company đã đi trước các đối thủ trong việc kết hợp hài hòa giữa thiết kế hiện đại với mức giá vừa phải. Đã nhận đượcđơn đặt hàng, Ford lắp đặt thiết bị sản xuất cải tiến và sau năm 1906, có thể giao hàng trăm chiếc xe mỗi ngày. Các phương thức và nguyên tắc kinh doanh vận tải mới xuất hiện. Chiếc xe của Henry Ford thu hút người mua. Điều này cho phép chúng tôi tối ưu hóa doanh số bán hàng.

Các mô hình trên toàn thế giới
Các mô hình trên toàn thế giới

Được khích lệ bởi sự thành công của Model T, Henry Ford đã quyết tâm tạo ra một chiếc xe tốt hơn cho một số lượng lớn người. Model T, với bốn xi-lanh và hai mươi mã lực, được chào bán lần đầu tiên vào tháng 10 năm 1908, được bán với giá 825 đô la.

Trong nỗ lực sản xuất hàng loạt Model T, Ford đã áp dụng các kỹ thuật sản xuất hàng loạt hiện đại tại nhà máy mới ở Highland Park, Michigan, mở cửa vào năm 1910. Năm 1912, một chiếc Model T được bán với giá 575 đô la, thấp hơn mức lương trung bình hàng năm ở Hoa Kỳ.

Vào thời điểm Model T bị ngừng sản xuất vào năm 1927 như một biểu tượng của ngành công nghiệp ô tô Mỹ, giá của nó đã giảm xuống còn 290 đô la Mỹ. Với 15 triệu chiếc được bán ra, việc có hai xe trở lên cho mỗi gia đình đã trở thành hiện thực. Sau đó, thị trường tăng lên nhiều lần.

Tăng trưởng Công nghiệp

Phương pháp sản xuất hàng loạt củaFord nhanh chóng được các nhà sản xuất xe hơi khác của Mỹ áp dụng. Các doanh nhân châu Âu đã không bắt đầu sử dụng chúng cho đến những năm 1930. Số lượng các nhà sản xuất ô tô đang hoạt động đã giảm từ 253 năm 1908 xuống chỉ còn 44 vào năm 1929, với khoảng 80% sản lượng của ngành đến từFord, General Motors và Chrysler.

Nhu cầu về vận chuyển cơ bản mà Model T cung cấp tiếp tục tăng trong những năm 1920.

Gian hàng

Đến năm 1927, nhu cầu thay thế ô tô mới vượt xa nhu cầu từ chủ sở hữu mới và nhiều người mua ô tô cộng lại. Với thu nhập trong ngày, các công ty không còn có thể trông chờ vào việc mở rộng thị trường. Bán hàng trả góp do ngành công nghiệp ô tô giá vừa phải của Mỹ khởi xướng vào năm 1916 để cạnh tranh với Model T, và đến năm 1925, khoảng 30% tổng số ô tô mới đã được mua theo hình thức tín dụng. Có rất nhiều đề nghị từ các tổ chức tín dụng tư nhân.

Mặc dù một số loại hàng hóa đắt tiền như đàn piano và máy khâu đã được bán trước năm 1920, nhưng chính việc bán xe hơi trả góp trong những năm 1920 đã khiến việc mua những món đồ tiêu dùng đắt tiền trở thành thói quen của tầng lớp trung lưu và là trụ cột của người Mỹ nền kinh tế.

Sự kết hợp của các công ty

Sự bão hòa của thị trường đồng thời với sự trì trệ về công nghệ cả về sản phẩm và công nghệ sản xuất. Những điểm khác biệt chính tạo nên sự khác biệt giữa các mẫu xe sau Thế chiến thứ 2 với Mẫu T là: tự động khởi động, thân xe hoàn toàn bằng thép, động cơ có độ nén cao, phanh thủy lực, hộp số đồng bộ, áp suất thấp và lốp bóng.

Phần còn lại của những cải tiến - hộp số tự động và thiết kế khung thả - đến từ những năm 1930. Hơn nữa, với một vài trường hợp ngoại lệ, ô tô được sản xuất vào đầu những năm 1950 giống như những năm 1920.

Mô hình phổ biến
Mô hình phổ biến

Để đối phó với các vấn đề về bão hòa thị trường và trì trệ công nghệ, General Motors, dưới sự lãnh đạo của Alfred P. Sloan, Jr., đã đưa ra kế hoạch sản phẩm lỗi thời vào những năm 1930 và đặt trọng tâm mới vào mô hình. Do đó, kỹ thuật phụ thuộc vào lệnh của các nhà tạo mẫu và kế toán. General Motors đã trở thành hình mẫu của một tập đoàn hợp lý được thúc đẩy bởi cơ cấu công nghệ.

Tác động của chiến tranh

Big Detroit Three, bao gồm Chrysler Group LLC, General Motors và Ford Motor Company, đóng một vai trò quan trọng trong việc sản xuất xe quân sự và thiết bị quân sự trong Thế chiến thứ nhất. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ngoài việc sản xuất vài triệu xe quân sự, các nhà sản xuất xe Mỹ còn sản xuất khoảng 55 mặt hàng quân sự chính, hầu hết không liên quan gì đến ô tô. Những vật liệu này có tổng giá trị là 29 tỷ đô la, một phần năm tổng sản lượng quốc gia.

Bởi vì việc sản xuất xe cho thị trường dân sự ngừng vào năm 1942, và lốp xe và xăng bị phân chia nghiêm ngặt, số lượng chuyến xe trong những năm chiến tranh đã giảm mạnh. Sau chiến tranh, các mẫu xe và lựa chọn ngày càng mở rộng, và mỗi năm xe hơi ngày càng nặng hơn, mạnh hơn, mua và chạy đắt hơn. Người ta tin rằng những chiếc xe lớn bán được nhiều lợi nhuận hơn những chiếc xe nhỏ.

Các nhà sản xuất Nhật Bản vươn lên

Về sau chất lượng giảm sút đến mức giữa chừngMột chiếc xe cổ điển những năm 1960 của ngành công nghiệp ô tô Mỹ được vận chuyển cho khách hàng bán lẻ với 20 lỗi trên mỗi mẫu, nhiều lỗi liên quan đến an toàn. Đã có nhiều công dân bất mãn. Hơn nữa, lợi nhuận cao mà Detroit kiếm được từ các quỹ hấp thụ khí đốt đã phải trả giá bằng chi phí xã hội do ô nhiễm không khí gia tăng và làm cạn kiệt nguồn dự trữ dầu của thế giới.

Kỷ nguyên tàu tuần dương được cải tiến hàng năm đã kết thúc với các tiêu chuẩn liên bang về an toàn ô tô (1966), khí thải gây ô nhiễm (1965 và 1970) và tiêu thụ năng lượng (1975). Đế chế của các nhà sản xuất Hoa Kỳ bắt đầu sụp đổ với sự gia tăng giá xăng sau cú sốc dầu năm 1973 và 1979, và đặc biệt là với sự thâm nhập ngày càng tăng của thị trường Hoa Kỳ và thế giới, đầu tiên là Volkswagen Bug của Đức và sau đó là thiết kế kinh tế, tiện dụng của Nhật Bản., xe nhỏ được chế tạo tốt.

Sau khi đạt mức kỷ lục 12,87 triệu chiếc vào năm 1978, doanh số bán ô tô do Mỹ sản xuất đã giảm xuống còn 6,95 triệu chiếc vào năm 1982 do nhập khẩu tăng thị phần tại Mỹ từ 17,7% lên 27,9%. Năm 1980, Nhật Bản trở thành nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới, một vị trí mà nước này tiếp tục giữ vững. Tuy nhiên, những lo ngại không mở rộng tầm ảnh hưởng của họ đến tất cả các phân khúc thị trường.

Nhà sản xuất Hoa Kỳ

Lịch sử của ngành công nghiệp ô tô Hoa Kỳ vẫn còn được viết đến ngày nay. Về cơ bản, nó bao gồm các sự kiện liên quan đến đổi mới và cạnh tranh với phương đông. Trong những năm 1980, ngành công nghiệp ô tô của Mỹ đã trải qua một cuộc tái cơ cấu tổ chức lớn vàphục hưng công nghệ. Các cuộc cách mạng quản lý và giảm quy mô của các cơ sở sản xuất GM, Ford và Chrysler và đội ngũ nhân viên đã dẫn đến việc các công ty trở nên nhanh nhẹn và cứng rắn hơn với điểm hòa vốn thấp hơn, cho phép họ thu lợi nhuận từ sản lượng thấp hơn trong thị trường cạnh tranh ngày càng bão hòa.

Các mô hình thể thao đầu tiên
Các mô hình thể thao đầu tiên

Chất lượng sản xuất và động lực của nhân viên và các chương trình gắn kết là ưu tiên hàng đầu. Năm 1980, ngành công nghiệp đã thực hiện một chương trình 5 năm hiện đại hóa và tái thiết bị kỹ thuật của nhà máy trị giá 80 tỷ đô la.

Di sản Hoa Kỳ

Những huyền thoại của ngành công nghiệp ô tô Mỹ đã là động lực quan trọng cho sự thay đổi trong thế kỷ 20. Trong suốt những năm 1920, ngành công nghiệp này đã trở thành trụ cột của một xã hội mới tập trung vào hàng tiêu dùng. Vào giữa những năm 1920, nó là số một về giá trị sản phẩm và vào năm 1982, nó đã cung cấp một trong sáu việc làm ở Hoa Kỳ.

Vào những năm 1920, ô tô đã trở thành huyết mạch của ngành công nghiệp dầu mỏ, một trong những khách hàng tiêu thụ chính của ngành thép và là khách hàng tiêu thụ lớn nhất của nhiều mặt hàng sản xuất khác.

Thị trường ô tô đã qua sử dụng
Thị trường ô tô đã qua sử dụng

Ô tô kích thích sự tham gia vào các hoạt động giải trí ngoài trời và góp phần vào sự tăng trưởng của du lịch và các ngành liên quan đến du lịch như trạm dịch vụ, nhà hàng ven đường và nhà nghỉ. Việc xây dựng đường phố và đường cao tốc, là một trong những hạng mục chi tiêu lớn nhất của chính phủ, đạt đến đỉnh điểm khiĐạo luật Xa lộ Liên tiểu bang năm 1956 đã giới thiệu chương trình công trình công cộng lớn nhất trong lịch sử.

Chiếc xe chấm dứt sự cô lập ở nông thôn và mang các tiện nghi đô thị - chăm sóc sức khỏe và trường học tốt hơn đến vùng nông thôn nước Mỹ. Thành phố hiện đại, với các khu công nghiệp và dân cư ngoại ô, là sản phẩm của giao thông đường bộ.

Giao thông vận tải đã thay đổi kiến trúc của ngôi nhà điển hình của Mỹ, khái niệm và thành phần của các khối thành phố, và giải phóng nhiều người khỏi ranh giới chật hẹp của ngôi nhà.

Năm 1980, 87,2% hộ gia đình Mỹ sở hữu một hoặc nhiều ô tô và 95% doanh số bán ô tô trong nước là xe thay thế. Người Mỹ đã thực sự trở nên tự động phụ thuộc.

1990: tài nguyên và thứ nguyên

Trong thập kỷ này, Xe Đa dụng Thể thao (SUV) đã trở nên vô cùng phổ biến. Giá xăng ổn định từ những năm 1980 đã khiến người tiêu dùng ít quan tâm hơn đến việc sử dụng tài nguyên đối với các loại xe 4WD lớn hơn này. Trong khi khách hàng không quá quan tâm đến các vấn đề môi trường, thì các chính phủ lại.

Nhu cầu cao
Nhu cầu cao

Sự tích cực của các bang như California đã khiến xe hơi trở nên thân thiện hơn với môi trường. Điều này đã góp phần vào những tiến bộ công nghệ đáng kể, chẳng hạn như sự gia tăng sản xuất các loại xe chạy bằng pin điện. Vào cuối những năm 1990, những chiếc xe hybrid đầu tiên sử dụng động cơ điện và khí đốt nhỏ đã được ra mắt.

2000: Ô tô ngày càng nhỏ và hiệu quả hơn

Đến năm 2005, 11 quốc gia chiếm 80% sản lượng thế giới, có nghĩa là một sân chơi rộng hơn và sự gia tăng đáng kể trong cạnh tranh toàn cầu. Trong vài năm đầu của thiên niên kỷ mới, các công ty xe hơi phục vụ những người tiêu dùng mong đợi những chiếc xe mạnh mẽ.

Chiếc SUV có giá rất cao và người tiêu dùng rất dễ vay tiền để mua một trong những chiếc xe đắt tiền đó. Tuy nhiên, vào năm 2008, một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng đã khiến các ngân hàng phải thắt chặt các yêu cầu cấp vốn. Ngày càng ít người có khả năng mua một chiếc xe hơi đắt tiền. Đồng thời, nhiên liệu trở nên đắt hơn. Vào mùa hè năm 2008, giá nhiên liệu kỷ lục đã buộc nhiều người tiêu dùng phải bán những chiếc xe lớn của họ và mua những chiếc xe nhỏ hơn, hiệu quả hơn. Xe lai hiện tràn ngập các con đường.

Lịch sử hiện đại và sự xuất hiện của những đổi mới

Kể từ năm 2010, ngành công nghiệp ô tô đã nhanh chóng phục hồi sau những tổn thất trong quá khứ. Ngành công nghiệp này đã trải qua năm tốt nhất vào năm 2013 với doanh số bán hàng và việc làm tăng lên hàng năm. Người lái xe giờ đây có nhiều sự lựa chọn hơn cho các loại phương tiện và những thứ xa xỉ hơn bao giờ hết.

Mô hình hiện đại
Mô hình hiện đại

Xe hiệu quả đang ngày càng phổ biến và những phương tiện tự lái đầu tiên đang xuất hiện. Một trong những người đổi mới ý tưởng này và sự phát triển của nó là Elon Musk. Vào năm 2016, gần một nửa số người từ 25 đến 34 tuổi cho biết họ sẽ sử dụng đầy đủphương tiện giao thông tự động vì họ tin rằng nó an toàn hơn phương tiện giao thông truyền thống.

Thích ứng với nhu cầu khách hàng

Trong suốt lịch sử, ngành công nghiệp ô tô đã chứng tỏ một khả năng vượt trội để thích ứng với những thay đổi của thời gian. Trong khi các nhà sản xuất đã đến và đi trong hơn một thế kỷ qua, ngành công nghiệp này vẫn tập trung vào việc tạo ra các thiết bị đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Giám đốc điều hành Tesla Elon Musk, người đã tạo ra một chiếc xe chạy hoàn toàn bằng điện không người lái, là một trong những động lực của sự phát triển này.

Đề xuất: